Nhãn hiệu là phương tiện nhận diện sản phẩm, thương hiệu hầu hết các sản phẩm, dịch vụ trên thị trường hiện nay. Chúng cho phép người tiêu dùng phân biệt được nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ, thuận tiện cho quá trình chọn lọc và sử dụng các sản phẩm mà bản thân mong muốn. Tuy vậy, lợi dụng uy tín, tiếng tăm của các nhãn hiệu đã có thị phần nhất định nhằm tạo ra các nhãn hiệu đạo nhái khiến người dùng nhầm lẫn mà lựa chọn cũng trở nên phổ biến. Trước tình hình đó, pháp luật quy định thế nào về hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu này?
1. Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu
Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu được hiểu là các hành vi xâm phạm các quyền sở hữu, sử dụng và định đoạt của chủ sở hữu một nhãn hiệu nhất định đã được đăng ký và bảo hộ theo quy định của pháp luật trong thời hạn nhất định.

Hành vi xâm phạm quyền sở hữu, sử dụng và định đoạt của chủ sở hữu
Yếu tố “xâm phạm” được hiểu là xâm phạm giới hạn quyền sở hữu của chủ sở hữu đối với nhãn hiệu đã được đăng ký và bảo hộ. Theo đó, chủ sở hữu có quyền sử dụng, cho phép hoặc ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu của mình. Theo đó, hành vi sử dụng nhãn hiệu bao gồm:
- Gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, dịch vụ, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh,...
- Lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hóa mang nhãn hiệu được bảo hộ;
- Nhập khẩu hàng hóa/ dịch vụ mang nhãn hiệu đó.
Cùng với đó, giới hạn quyền này đòi hỏi chủ sở hữu cần sử dụng liên tục nhãn hiệu này. Cụ thể, khi không sử dụng nhãn hiệu liên tục từ 5 năm trở lên thì quyền sở hữu đối với nhãn hiệu đó bị chấm dứt. Và vì vậy, không thể ngăn chặn hay lấy những nội dung nêu trên làm căn cứ để xác định đối phương xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu của mình.
2. Các hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu
Để bảo hộ hiệu quả thành quả lao động trí tuệ, một trong những nội dung quan trọng là cần đảm bảo chủ sở hữu nhãn hiệu đó không bị xâm phạm các lợi ích hợp pháp - hay còn gọi là hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu. Theo đó, dưới đây là một số hành vi xâm phạm được pháp luật liệt kê.
2.1. Nhãn hiệu nói chung
Thuật ngữ đạo nhái nhãn hiệu thì hầu như ai trong chúng ta đều có những mường tượng nhất định. Tuy vậy, xác định một số hành vi được xem là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu cụ thể như thế nào không phải ai cũng nắm rõ. Theo đó, dưới đây là một số hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu được pháp luật quy định, cụ thể:
- Sử dụng nhãn hiệu trùng với nhãn hiệu đã được bảo hộ, dùng cho hàng hóa, dịch vụ trùng, tương tự hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ đã được đăng ký cho nhãn hiệu đó.
- Sử dụng nhãn hiệu tương tự với nhãn hiệu đã được bảo hộ, dùng cho hàng hóa, dịch vụ trùng, tương tự hoặc liên quan tới hàng hóa, dịch vụ đã được đăng ký cho nhãn hiệu đó.

Sử dụng nhãn hiệu trùng với nhãn hiệu đã được bảo hộ
Điểm lưu ý là các hành vi trên sẽ được xem là xâm phạm quyền nếu đối phương thực hiện khi không có sự cho phép của chủ sở hữu nhãn hiệu đã được đăng ký. Và, việc thực hiện đó khiến cho người tiêu dùng có khả năng bị nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Việc quy định và ngăn chặn các hành vi này cũng là định hướng, mục đích của những quy định pháp luật sở hữu trí tuệ về việc quản lý nhãn hiệu và tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường hiện nay.
2.2. Nhãn hiệu nổi tiếng
Đối với nhãn hiệu nổi tiếng - đối tượng nhãn hiệu đặc biệt, các hành vi bị coi là xâm phạm quyền khi:
- Sử dụng nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng cho nhóm hàng hóa dịch vụ bất kì; hoặc
- Sử dụng nhãn hiệu có dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hóa, dịch vụ bất kỳ.
Có nghĩa là, khác với nhãn hiệu thông thường, ngay cả khi nhãn hiệu của đối phương không trùng hay tương tự với nhóm hàng hóa dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng thì vẫn được xem là hành vi vi phạm. Bởi lẽ, chúng không những khiến người tiêu dùng nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa dịch vụ mà còn có ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa đối phương và chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng đó.
Ví dụ: Chanel nổi tiếng trên khắp thế giới về quần áo thời trang, đồng hồ, phụ kiện túi xách… Thì việc anh A sử dụng nhãn hiệu Chanel cho sản phẩm nội thất làm bằng da tại Việt Nam thì dù sử dụng cho nhóm hàng hóa, dịch vụ khác nhưng vẫn bị coi là hành vi xâm phạm vì Chanel là nhãn hiệu nổi tiếng.
3. Căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu
Thoạt nghĩ, hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu tưởng chừng như rất rõ ràng và cụ thể để xác định. Tuy vậy, để rõ ràng và chặt chẽ, pháp luật cũng có những quy định về căn cứ để hỗ trợ cá nhân, tổ chức trong việc xác định hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu.
3.1. Nhãn hiệu nói chung
Khi xác định một nhãn hiệu có hay không hành vi xâm phạm, cần so sánh, đánh giá cả phần dấu hiệu và phạm vi nhóm hàng hóa, dịch vụ của nhãn hiệu bị nghi ngờ với dấu hiệu và phạm vi hàng hóa dịch vụ đã được bảo hộ cho nhãn hiệu khác trước đó. Cụ thể:
+ Dấu hiệu (đặc điểm như hình, chữ, ký hiệu,....) của nhãn hiệu đang bị xem xét trùng hoặc tương tự với dấu hiệu thuộc phạm vi bảo hộ của nhãn hiệu đã được bảo hộ.
+ Nhãn hiệu đang bị xem xét gắn trên hàng hóa, bao bì sản phẩm, phương tiện dịch vụ, bảng hiệu,... trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được bảo hộ (trừ nhãn hiệu nổi tiếng).
3.2. Nhãn hiệu nổi tiếng
Đối với nhãn hiệu nổi tiếng, như đã phân tích ở trên về hành vi xâm phạm quyền, nhãn hiệu bị nghi ngờ chỉ cần xem xét về yếu tố dấu hiệu như cách thể hiện hình vẽ, ý nghĩ, phát âm,... để xác định có hay không hành vi xâm phạm.

Xem xét yếu tố dấu hiệu để xác định hành vi vi phạm
Về yếu tố phạm vi nhóm hàng hóa dịch vụ, chỉ cần nhãn hiệu bị nghi ngờ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ hoặc có ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sản xuất, kinh doanh sản phẩm dịch vụ đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng thì được coi là đáp ứng điều kiện số 2 nêu trên.
3.3. Một số lưu ý khác
Như một lẽ đương nhiên, hành vi xâm phạm được thực hiện bởi một chủ thể khác không là chủ sở hữu hoặc không được chủ sở hữu cho phép. Đồng thời hành vi đó được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam, hoặc hướng đến đối tượng là người tiêu dùng Việt Nam.
Nhãn hiệu là đối tượng sở hữu trí tuệ gần gũi và phổ biến trong hoạt động kinh doanh, sản xuất của hầu hết cá nhân, tổ chức hiện nay. Hiểu được giá trị mà nó mang lại, các chủ sở hữu ngày càng ý thức được sự quan trọng của việc đăng ký bảo hộ quyền sở hữu với nhãn hiệu đó. Trong đó, cơ chế chống lại những hành vi xâm phạm quyền nêu trên là một trong những nội dung quan trọng khi nhãn hiệu đó được bảo hộ.